Những điều chưa biết về loài rùa cạn lớn nhất thế giới
Người ta cho rằng tuổi của con rùa có thể được xác định bằng cách nghiên cứu các vòng sinh trưởng trên lớp mai, nhưng thực tế, điều này rất khó trừ khi biết được khi nào chúng ấp trứng.
Một con rùa Galápagos. (Ảnh: Tui De Roy/NPL)
Loài Rùa
Theo nghiên cứu của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN), nhiều loài rùa khổng lồ từng tồn tại trên hành tinh, nhưng chúng có tỷ lệ tuyệt chủngcao hơn so với những loài có kích thước nhỏ hoặc trung bình.
>> Tòa nhà cao tầng ở TP.HCM thường xuyên xuất hiện côn trùng
>> Khô nhái đã nhanh chóng trở thành đặc sản miền Tây
Anders Rhodin, giám đốc Tổ chức nghiên cứu rùa (CRF), cho biết loài động vật chậm chạp và ít đe dọa này rất dễ tìm thấy. Vì có thể tồn tại mà không cần thức ăn hay nước trong thời gian dài, chúng có thể được lưu trữ khi còn sống, trở thành nguồn cung cấp thức ăn trong nhiều tháng. Rhodin ví những con rùa như đồ ăn đóng hộp và người hominin đã sử dụng công cụ bằng đá để "mở nắp hộp".
Người ta cho rằng tuổi của một con rùa được xác định bằng cách đếm vòng sinh trưởng trên mai rùa. Tuy nhiên, phương pháp này chỉ đáng tin cậy ở năm đầu hoặc năm thứ hai, không có tác dụng đối với những con trưởng thành. Cách xác định tuổi chính xác là dựa trên số lần rùa đẻ và ấp trứng. Trong một số trường hợp, các chuyên gia xác định có những con rùa sống 150 tuổi hoặc hơn.
Những điều chưa biết về loài rùa cạn lớn nhất thế giới
Loài rùa cạn lớn nhất thế giới hiện nay được tìm thấy ở Cộng hòa Seychelles - một quốc đảo trên Ấn Độ Dương, và quần đảo Galápagos ở Thái Bình Dương. Đây là lý do khiến không ít người cho rằng kích thước lớn của chúng được hình thành từ môi trường sống trên đảo. Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn chắc chắn.
Một loài rùa lớn có tên khoa học Hesperotestudo crassiscutata từng tồn tại ở khu vực Trung Mỹ và phía nam nước Mỹ, nhưng tuyệt chủng cách đây 12.000 năm.
Queensland, Australia từng là nơi sinh sống của "quái vật" rùa Ninjemys oweni. Siwaliks (Megalochelys atlas) có mặt ở khu vực là Ấn Độ ngày nay cách đây vài triệu năm, có kích thước gấp hai lần rùa Galápagos.Theo kết quả phân tích gene năm 1999, tổ tiên của rùa Galápagos từng lớn hơn so với kích thước hiện nay.
Một con rùa khổng lồ có thể thông minh khác thường
Năm 1835, Charles Darwin từng nhận định rùa khổng lồ ở Galápagos di chuyển nhanh hơn so với những gì ông tưởng tượng, khi đi được 6,4 km/ngày và có thời gian nghỉ ngơi ngắn. Bằng các thiết bị theo dõi, các nhà khoa học hiện đại chỉ ra rằng chúng chủ yếu thực hiện những bước chuyển động ngắn, đi được không quá 2 km/ngày.
Theo các chuyên gia, dù chậm chạp, rùa có thể khá thông minh. Trong nghiên cứu rùa chân đỏ Nam Mỹ (họ hàng với rùa khổng lồ ở Galápagos), họ nhận thấy chúng sử dụng các điểm mốc để tự thiết lập bản đồ về môi trường xung quanh. Loài bò sát này còn có thể học hành vi của những con khác.