Tìm hiểu công nghệ sinh học tại Nhật Bản
Công nghệ sinh học ở Nhật Bản
Nhật Bản xem công nghệ sinh học là một ngành rất quan trọng, các ngành công nghệ sinh học cũ như lên men, sản xuất enzyme, chất phụ gia sản phẩm và thực phẩm lên men đóng một vai cực kỳ quan trọng trong công nghiệp Nhật Bản trong suốt thế kỷ qua. Nhật Bản còn có các thị trường rất mạnh sử dụng các thành quả của các ngành công nghệ sinh học mới như ngành dược phẩm là thị trường lớn thứ hai trên thế giới, ngành chăm sóc sức khỏe dưới áp lực rất lớn phải giảm chi phí, ngành chế biến thực phẩm lớn mạnh ham muốn những sản phẩm mới cùng với hai ngành đang phát triển là công nghệ phân hủy sinh học (bioremediation) và môi trường .
Thay đổi mô hình
Tuy nhiên, Nhật Bản tin rằng họ đang bị tuột ở phía sau trong các ngành công nghệ sinh học mới cực kỳ quan trọng như kỹ thuật tái tổ hợp DNA (recombinant DNA), kỹ thuật di truyền (genetic engineering) và phân tích gen và tụt hậu về các ngành liên kết hỗ trợ trong những lĩnh vực này. Mối quan tâm này đã lan rộng đến các cấp cao nhất của chính phủ trong thời gian khi Nhật Bản đối mặt với sự thay đổi trong nhiều lĩnh vực: ảnh hưởng của nước Trung Quốc phát triển mạnh trong khu vực Châu Á, nền kinh tế tiếp tục giảm phát, ngân sách nhà nước thiết hụt lớn và các vấn đề về cơ cấu trong đó có cả khả năng cạnh tranh yếu trong một số ngành.
Trước đây trong quá khứ, Nhật Bản đã cố gắng chọn những công nghệ và các ngành liên quan đến tương lai của đất nước và xây dựng chế độ quan liêu để hỗ trợ sự tái định hướng này. Tuy nhiên, chính phủ đã nhận ra rằng mô hình này đã thay đổi và vào đầu thế kỷ này, các bộ trong chính phủ bắt đầu hợp nhất lại để lập ra các siêu bộ với nỗ lực nhằm mang lại các phương pháp hợp nhất và thích hợp để thay đổi toàn bộ chính phủ.
Ngành công nghệ sinh học
Những thay đổi quan trọng đối với ngành công nghệ sinh học là quyết định thúc đẩy công nghệ sinh học bằng việc lập ra Hội đồng Chiến lược Công Nghệ Sinh Học cấp cao nhất, cải thiện các ưu đãi về thuế để hỗ trợ nghiên cứu và phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các mạng lưới thử nghiệm lâm sàng và công khai hơn trong việc chấp nhận sự trao đổi giữa các nhà nghiên cứu trong trường đại học với giới công nghiệp. (Giới học thuật Nhật Bản được xem có hai vai trò: thông qua các hoạt động gặp gỡ và xuất bản, họ tạo ra nơi trao đổi giữa các nhà nghiên cứu trong trường đại học với giới công nghiệp; và thông qua việc tham gia các dự án khác nhau của chính phủ, họ vạch ra được định hướng về công nghệ.)